Phương thức thanh toán AP hay còn gọi là phương thức uỷ thác mua (Authority to Purchase-A/P) là phương thức thanh toán mà trong đó ngân hàng bên nhập khẩu, theo yêu cầu của nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu ngân hàng đại lí ở nước người phát hành một A/P trong đó cam kết sẽ mua hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát với điều kiện chứng từ của người xuất khẩu xuất trình phù hợp với các điều kiện đặt ra trong thư uỷ thác (A/P).
Phân biệt ủy thác mua bán và đại lý thương mại
– Hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng.
– Bên xuất khẩu là thương nhân hoặc không phải là thương nhân giao cho bên nhập khẩu thực hiện mua bán hàng hoá theo yêu cầu của mình.
– Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ.
– Sự cam kết thanh toán của ngân hàng ở đây được đảm bảo bằng tiền.
Hy vọng bài viết của Thanh toán Quốc tế sẽ hữu ích với bạn học xuất nhập khẩu.
Đặc điểm về phương thức thanh toán ủy thác mua – thanh toán AP là gì?
Quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa được xác lập giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác:
Một doanh nghiệp ở Việt Nam muốn nhập khẩu hàng hoá ở Mỹ thì cần phải đem vốn gửi trước tại ngân hàng của Mỹ thì mới có thể mở thư tín dụng để mua hàng hoá. Ngân hàng đại lý sẽ căn cứ vào điều khoản của thư uỷ thác mua mà trả tiền hối phiếu, ngân hàng bên mua thu tiền của người mua và giao chứng từ cho họ.
(Khi sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ các nước giàu thường viện cớ rằng ngân hàng các nước nghèo không đủ tín nhiệm nên không thể tự mình đảm bảo cho thư tín dụng của mình mở cho thương nhân xuất khẩu ở các nước giàu).
Quyền và nghĩa vụ của Bên ủy thác và Bên nhận ủy thác đối với Hợp đồng ủy thác
Uỷ thác mua bán hàng hóa là một trong những phương thức, quy chế quan trọng được các thương nhân thường xuyên sử dụng trong quá trình kinh doanh quốc tế, tuy nhiên đây là hoạt động thương mại mà trên thực tế dễ xảy ra nhiều tranh chấp vì sự thiếu đồng bộ về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên: “ủy thác và bên nhận ủy thác”. Vì thế để đảm bảo về lợi ích giữa các bên liên quan, theo quy định tại “Điều 162 và Điều 163 Luật Thương mại 2005” thì quyền, nghĩa vụ của bên ủy thác trong hợp đồng ủy thác mua hàng hóa được quy định cụ thể như sau:
Yêu cầu bên nhận ủy thác thông tin đầy đủ về tình hình thực hiện hợp đồng ủy thác thương mại.
Không phải chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận ủy thác vi phạm pháp luật, trừ trường hợp bên nhận ủy thác vi phạm pháp luật mà nguyên nhân do bên ủy thác gây ra hoặc do các bên cố ý làm trái luật, (trừ trường hợp quy định tại “khoản 4 Điều 163 của Luật Thương mại 2005”).
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên nhận uỷ thác có các quyền sau đây:
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có thể được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên trong đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện được thoả thuận với bên uỷ thác và bên ủy thác có nghĩa vụ trả thù lao cho việc ủy thác của bên được ủy thác.
Ví dụ về Hợp đồng ủy thác xuất khẩu (hình 4.1)
Hình 4.1: Hợp đồng Ủy thác xuất khẩu
Rủi ro của Bên ủy thác và Bên nhận ủy thác mua
Chịu mọi trách nhiệm pháp lý : vì công ty này đã thay mặt cho người nhập khẩu đứng tên trên giấy tờ, chịu mọi trách nhiệm pháp lý khi nhập hàng vào. Do đó, nếu xảy ra trường hợp mặt hàng bên trong lô hàng được nhập hay xuất ra là loại hàng cấm thì đơn vị làm dịch vụ ủy thác xuất nhập khẩu đang thực hiện trái pháp luật. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đơn vị nhận ủy thác.